Quốc hội vừa thông qua dự án Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) gồm 10 chương, 213 điều. Báo Đầu tư điện tử – baodautu.vn trân trọng giới thiệu những nội dung mới nhất của Luật này.
Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) quy định về việc thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và hoạt động có liên quan của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân (gọi chung là doanh nghiệp); Quy định về nhóm công ty; Trình tự đăng ký doanh nghiệp; Nội dung Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; Tài sản góp vốn…
Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) cũng bãi bỏ đề nghị doanh nghiệp cung cấp mã ngành khi thực hiện đăng ký kinh doanh. Theo đó, doanh nghiệp không bị hạn chế số lượng ngành nghề hoạt động kinh doanh.
Các nội dung mới của Luật đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo tiếp thu, chỉnh lý, giải trình trước khi Quốc hội thông qua gồm:
Áp dụng Luật doanh nghiệp và các luật chuyên ngành (Điều 3), có ý kiến đề nghị ưu tiên áp dụng Luật doanh nghiệp so với luật chuyên ngành, trừ những trường hợp ngoại lệ và chỉ đối với Luật chứng khoán, Luật tổ chức tín dụng, Luật kinh doanh bảo hiểm và Luật dầu khí. Có ý kiến đề nghị bỏ quy định tại Điều này vì việc áp dụng pháp luật đã được quy định tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Về vấn đề này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng: Ngoài Luật chứng khoán, Luật các tổ chức tín dụng, Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật dầu khí, một số doanh nghiệp trong các lĩnh vực khác cũng có đặc thù về thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và các hoạt động khác có liên quan, như: hàng không dân dụng, xuất bản, báo chí, giáo dục, luật sư, công chứng… chưa kể các luật cũng đang trong quá trình sửa đổi, bổ sung, ban hành mới.
Việc liệt kê hết các Luật chuyên ngành được áp dụng quy định đặc thù sẽ không đầy đủ. Vì vậy, đề nghị Quốc hội cho giữ như quy định của dự án Luật đã trình; đồng thời, trong quá trình dự thảo, thẩm tra và ban hành luật, Ủy ban thường vụ Quốc hội sẽ chỉ đạo các cơ quan soạn thảo, thẩm tra nghiên cứu, xem xét, chỉnh lý các dự án Luật để trình Quốc hội xem xét, thông qua, bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ của hệ thống pháp luật.
Về doanh nghiệp xã hội (Điều 10), có ý kiến đề nghị bổ sung định nghĩa doanh nghiệp xã hội vào Điều 4 về giải thích từ ngữ, bổ sung một chương quy định về doanh nghiệp xã hội.
Về vấn đề này, Ủy ban thường vụ Quốc hội cho rằng: Doanh nghiệp xã hội (DNXH) không phải là một loại hình doanh nghiệp đặc thù riêng mà cũng giống như doanh nghiệp thông thường, DNXH vẫn tổ chức và hoạt động theo một trong các loại hình doanh nghiệp: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn… chỉ phân biệt ở mục đích phân phối và sử dụng lợi nhuận.
Các tiêu chí xác định DNXH là căn cứ quan trọng để các cơ quan có thẩm quyền áp dụng các ưu đãi, hỗ trợ đối với các doanh nghiệp đáp ứng đủ tiêu chí; nội dung này gắn liền với quyền và nghĩa vụ của DNXH. Dự án Luật trình Quốc hội chỉ quy định những nội dung mang tính nguyên tắc về DNXH để ghi nhận về mặt pháp lý sự tồn tại của DNXH, làm cơ sở để ban hành các văn bản quy định chi tiết, sau quá trình hoạt động thực tiễn ổn định sẽ quy định cụ thể hơn trong Luật.
Giải trình ý kiến của đại biểu Quốc hội đề nghị bổ sung nội dung về phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn gắn với nông thôn mới trong khái niệm về DNXH, Ủy ban thường vụ Quốc hội đánh giá: Dự án Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) trình Quốc hội đã bổ sung làm rõ hơn tại Điều 10 về tiêu chí của DNXH, cụ thể: DNXH là doanh nghiệp được đăng ký thành lập theo quy định của Luật, có mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng và sử dụng ít nhất 51% tổng lợi nhuận hằng năm của doanh nghiệp để tái đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường như đã đăng ký. Những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, gắn với nông dân, nông thôn mới đáp ứng các tiêu chí trên đây là DNXH, sẽ được hưởng ưu đãi, khuyến khích theo quy định.
Về vấn đề người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp (Điều 13), có ý kiến đại biểu Quốc hội đề nghị không nên quy định công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật, vì có nhiều người đại diện theo pháp luật sẽ khó xác định người đại diện cho công ty khi có tranh chấp, khởi kiện, truy cứu trách nhiệm hình sự, dân sự…
Vấn đề này được Ủy ban thường vụ Quốc hội giải trình như sau: Theo quy định như dự án Luật, công ty hoàn toàn có thể tự quyết định, chỉ định một người đại diện theo pháp luật. Trường hợp cần thiết thì có quyền tự chủ quyết định việc có nhiều người đại diện theo pháp luật; phạm vi quyền, nghĩa vụ của từng người đại diện phải được ghi rõ trong Điều lệ công ty. Tùy từng nội dung giao dịch, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp với thẩm quyền tương ứng được quy định trong Điều lệ sẽ thực hiện giao dịch với các đối tác.
Về hồ sơ đăng ký doanh nghiệp, có ý kiến của đại biểu Quốc hội đề nghị bổ sung Phiếu lý lịch tư pháp trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp tại các điều 20, 21, 22 và 23. Vấn đề này, Ủy ban thường vụ Quốc hội cho rằng: Yêu cầu bổ sung Phiếu lý lịch tư pháp vào hồ sơ đăng ký doanh nghiệp với tất cả các trường hợp sẽ làm tăng thêm thời gian thành lập doanh nghiệp tạo ra gánh nặng chi phí tuân thủ rất lớn cho cả cơ quan nhà nước và doanh nghiệp, sẽ có tác động không thuận lợi cho môi trường đầu tư, kinh doanh ở nước ta.
Do vậy, Phiếu lý lịch tư pháp không phải là tài liệu bắt buộc trong Hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp; tuy nhiên, để có căn cứ kiểm soát một số trường hợp không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp, xin tiếp thu theo hướng bổ sung quy định tại điểm e khoản 2 Điều 18 như sau: Trong trường hợp Cơ quan đăng ký kinh doanh có yêu cầu, người đăng ký thành lập doanh nghiệp phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh.
Về vấn đề con dấu của doanh nghiệp (Điều 44), có ý kiến đề nghị nghiên cứu thêm để phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành về quản lý và sử dụng con dấu cũng như có biện pháp bảo đảm con dấu có giá trị pháp lý và không bị giả mạo. Vấn đề này, Ủy ban thường vụ Quốc hội cho rằng: Doanh nghiệp có quyền tự chủ quyết định về hình thức, nội dung và việc quản lý, sử dụng con dấu; đồng thời, doanh nghiệp có nghĩa vụ thông báo mẫu dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh để đăng tải công khai trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Khi tham gia các hoạt động kinh doanh, bên đối tác đương nhiên có các biện pháp kiểm tra toàn diện về doanh nghiệp, kể cả tính xác thực của con dấu để hai bên có thể tin tưởng, ký kết, thực hiện giao dịch.